hoàn cảnh sáng tác bài thơ ông đồ
+ hoàn cảnh sáng tác bài ông đồ: trong những năm cuối thế kỉ xix, hình ảnh các ông đồ với mực tàu, giấy đỏ đang dậm tô những nét chữ tươi tắn bên hè phố hà nội tấp nập người mua chữ đã in sâu vào tâm trí nhà thơ, tuy nhiên cho đến đầu thế kỉ xx, những hình ảnh đẹp đẽ đó dần biến mất, ông đồ vẫn ở đó vào dịp tết đến nhưng thay vào đó là sự thờ ơ, …
- Hoàn cảnh sáng tác: Như đã giới thiệu ở phần Tác giả, Cao Bá Quát nhiều lần khăn gói lên đường vào Huế dự thi kì thi Hội nhưng đều không đỗ.
Hoàn cảnh sáng tác - Ông đồ là những người dạy học chữ Nho thời xưa. - Mỗi dịp Tết đến, ông đồ thường được nhiều người thuê viết chữ, câu đối để trang trí trong nhà. - Nhưng từ khi chế độ thi cử của phong kiến bị bãi bỏ, chữ Nho không được coi trọng nữa, ngày tết không mấy ai chơi chữ, thì ông đồ bị thất thế.
Tặng quà cho bé thơ. Em yêu trăng Trăng Trung thu sáng ngời. Trung thu trăng ghé thăm nhà Tặng quà cho bé thơ. 3. Bài hát: Tết Trung thu. Sáng tác lời: Cô Phạm Thị Yến (Tâm Chiếu Hoàn Quán) Sáng tác nhạc: Chu Oanh Thể hiện: Thu An, Hoa Phượng, Sophia cùng nhóm múa Baby Monsters-----
Cho một người nằm xuống: Một trong những bài hát của Trịnh Công Sơn cũng "bỗng dưng" đi ra ngoài khuôn khổ bình thường dòng nhạc của ông , đó là bài hát viết cho cái chết của một người bạn thân, Ðại tá Lưu Kim Cương, đã tử trận tại Tân Sơn Nhất . Chiều một mình qua phố: TCS sáng tác tại Blao-Bảo Lộc
gambar lingkungan rumah bersih dan sehat kartun. Bài thơ Ông đồ sáng tác năm 1936 và được đăng trên tạp chí “Tinh hoa”. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nền Hán học đang mất dần vị thế của mình do sự xâm nhập của nền văn hóa phương Tây. Đây cũng là lúc các ông đồ không còn được trọng vọng do thời thế đã thay đổi. Nhắc đến ông đồ là nhắc đến những thầy dạy chữ Nho ngày xưa, mỗi dịp Tết đến xuân về ông thường xuất hiện bên đường phố để viết những câu đối đỏ. Ngày nay, nghệ thuật thư pháp đã dần phát triển trở lại, nhiều ông đồ trẻ xuất hiện. Bài thơ Ông đồ là bài thơ tiêu biểu nhất cho hồn thơ giàu thương cảm của nhà thơ Vũ Đình Liên. Ông sáng tác thơ không nhiều nhưng chỉ với bài thơ Ông đồ, ông đã có vị trí xứng đáng trong phong trào Thơ mới. Ông đồ là người dạy học chữ nho ngày xưa. Các nhà nho ngày xưa nếu không đỗ đạt làm quan thì thường làm nghề dạy học, họ được gọi là ông đồ hay thầy đồ. Mỗi dịp Tết đến, các ông đồ thường được nhiều người thuê viết chữ xin chữ, câu đối để trang trí trong nhà. Nhưng từ khi chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, chữ nho không còn được coi trọng, ngày Tết dần ít người sắm câu đối hoặc chơi chữ, ông đồ trở nên thất thế và phai mờ dần. Từ đó, hình ảnh ông đồ chỉ còn là “cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn” lời Vũ Đình Liên. Hình ảnh ông đồ xưa viết chữ Hán Bài thơ Ông đồ Tác giả Vũ Đình Liên Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực Tàu, giấy đỏ Bên phố đông người qua Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài “Hoa tay thảo những nét Như phượng múa, rồng bay” Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu? Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu... Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa Những người muôn năm cũ Hồn ở đâu bây giờ? Bài thơ Ông đồ - Đăng trên báo Tinh hoa - năm 1936. Ngày nay, Ông đồ viết chữ đang tăng dần số lượng lẫn chất lượng. Bộ môn nghệ thuật thư pháp hiện đại với chữ quốc ngữ cũng ngày càng phát triển. Nhiều ông đồ trẻ với những lối viết mới, sáng tạo. Tại thành phố Hồ Chí Minh cũng như các tỉnh thành khác, mỗi dịp Tết đến xuân về, nhiều phố ông đồ quy mô được tổ chức, như Phố ông đồ Nhà văn hóa thanh niên thành phố Hồ Chí Minh, Phố ông đồ Cung văn hóa lao động thành phố Hồ Chí Minh, ... Phố ông đồ Nhà văn hóa Thanh niên năm 2020 Ông đồ trẻ Tuấn Anh tại Chí Minh Thư pháp Tâm Thiên Phong Dạy viết thư pháp Tranh thư pháp Dụng cụ thư pháp Cho thuê ông đồ Fanpage Thư pháp chữ Việt Youtube Tâm Thiên Phong Địa chỉ 87/87/4 Nguyễn Sỹ Sách, phường 15, quận Tân Bình, Zalo / Điện thoại 0973 567 517 - Phong
Đề bài Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình Liên Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ Bạn đang xem Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ Bài làm– Tác giả Vũ Đình Liên+ Là nhà giáo nhân dân đồng thời là một nhà thơ+ Nhà thơ đầu tiên góp mặt trong phong trào Thơ mới đầu thế kỉ XX– Tác phẩm Ông đồ+ Hoàn cảnh lịch sử Đầu thế kỉ XX, sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, luồng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam khiến cho nền Hán học và chữ nho bị mất vị thế vốn có của nó. Chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, nền văn hóa dân tộc có nguy cơ bị sụp đổ. Điều này kéo theo vị thế của các nhà nho cũng bị sụt giảm theo, từ chỗ là “linh hồn” của nền văn hóa truyền thống dân tộc đến chỗ bị lạc lõng, bơ vơ trước thời cuộc và vắng bóng.+ Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ Trong những năm cuối thế kỉ XIX, hình ảnh các ông đồ với mực tàu, giấy đỏ đang dậm tô những nét chữ tươi tắn bên hè phố Hà Nội tấp nập người mua chữ đã in sâu vào tâm trí nhà thơ, tuy nhiên cho đến đầu thế kỉ XX, những hình ảnh đẹp đẽ đó dần biến mất, ông đồ vẫn ở đó vào dịp Tết đến nhưng thay vào đó là sự thờ ơ, vô tâm của người đời. Năm 1936, Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ Ông đồ, đăng lần đầu tiên trên báo Tinh Hoa.+ Nội dung chính Nỗi niềm chua xót, đau đớn, ngậm ngùi, luyến tiếc của tác giả về hình ảnh những ông đồ bị thất thế hay đó chính là những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông được lưu truyền qua hàng ngàn năm dần bị mai một. ——————HẾT——————- Để hiểu rõ hơn về bài thơ của Vũ Đình Liên, ngoài việc tìm hiểu về Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ, các em cũng có thể đón đọc thêm một số bài văn khác trong tài liệu bài văn hay lớp 8 chúng tôi đã tổng hợp được Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, Cảm nhận về bài thơ Ông đồ, Phân tích hình ảnh ông đồ trong bài thơ Ông đồ, Phân tích đoạn thơ “Năm nay đào lại nở… Hồn ở đâu bây giờ?” trong bài thơ Ông đồ, Phân tích giá trị biểu cảm của hai câu thơ sau trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên “Giấy đỏ buồn không thắm. Mực đọng trong nghiên sầu”,… Đăng bởi THPT Ngô Thì Nhậm Chuyên mục Giáo Dục Back to top button
Ngày đăng 22/03/2023, 2254 Export HTML To Doc Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ Câu hỏi Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ Lời giải Hoàn cảnh lịch sử Đầu thế kỉ XX, sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, luồng văn hóa phương Tây tràn v[.] Hồn cảnh sáng tác thơ Ơng đồ Câu hỏi Hồn cảnh sáng tác thơ Ơng đồ Lời giải - Hoàn cảnh lịch sử Đầu kỉ XX, sau Pháp xâm lược Việt Nam, luồng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam khiến cho Hán học chữ nho bị vị vốn có Chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, văn hóa dân tộc có nguy bị sụp đổ Điều kéo theo vị nhà nho bị sụt giảm theo, từ chỗ "linh hồn" văn hóa truyền thống dân tộc đến chỗ bị lạc lõng, bơ vơ trước thời vắng bóng - Hồn cảnh sáng tác Ơng đồ Trong năm cuối kỉ XIX, hình ảnh ông đồ với mực tàu, giấy đỏ dậm tô nét chữ tươi tắn bên hè phố Hà Nội tấp nập người mua chữ in sâu vào tâm trí nhà thơ, nhiên đầu kỉ XX, hình ảnh đẹp đẽ dần biến mất, ông đồ vào dịp Tết đến thay vào thờ ơ, vơ tâm người đời Năm 1936, Vũ Đình Liên sáng tác thơ Ông đồ, đăng lần báo Tinh Hoa Các em Toploigiai tìm hiểu thêm thơ Ông đồ nhé! Mục lục nội dung Tác giả Vũ Đình Liên Giá trị nội dung thơ Ông đồ Cảm nhận thơ Ông đồ Tác giả Vũ Đình Liên a Cuộc đời - Vũ Đình Liên 1913 - 1996 - Quê quán Quê gốc Hải Dương sống chủ yếu Hà Nội - Là nhà thơ lớp phong trào thơ b Sự nghiệp văn học - Ngồi sáng tác thơ, ơng cịn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học - Tác phẩm tiêu biểu Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc… - Phong cách sáng tác Thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng Giá trị nội dung thơ Ông đồ Bài thơ Ơng đồ với hình cảnh đáng thương ơng đồ thời vắng bóng, thể sâu sắc với tình cảnh đáng thương ông đồ niềm thương cảm, nuối tiếc tác giả với nét văn hóa truyền thống dân tộc Giá trị nghệ thuật thơ Ông đồ - Thể thơ chữ, kết hợp với ngôn ngữ bình dị súc tích - Giọng thơ trầm lắng, ngậm ngùi - Kết cấu độc đáo, đầu cuối tương ứng - Sử dụng biện pháp nhân hóa kết hợp với việc lựa chọn hình ảnh giản dị mang tính biểu tượng Cảm nhận thơ Ơng đồ Theo dòng thời gian bất tận, thứ lui vào dĩ vãng mịt mờ, để lại cho người bao nỗi niềm tiếc nuối Nhất vẻ đẹp tài hoa thời cịn vang bóng Cũng bắt nguồn từ cảm hứng ấy, thơ Ông Đồ thể hoài niệm day dứt, thương cảm cho giá trị tinh thần tàn lụi Bài thơ gương phản chiếu cho hồn thơ giàu lịng thương người hồi cổ Vũ Đình Liên Được đời phong trào Thơ mới, thơ khỏi hai trục cảm xúc thời tình yêu thiên nhiên Trong lúc nhà thơ lãng mạn chìm đắm tơi cá nhân, muốn vẽ nên thực mà họ muốn có, say sưa mộng ảo Vũ Đình Liên trí thức tây học lúc sững người, ngoảnh đầu quay lại phía sau nhận "cái di tích tiều tuỵ, đáng thương thời" Ông đồ - hình ảnh cuối Nho học tồn suốt ngàn năm phong kiến Việt Nam Sự trượt dốc Nho học kéo theo lớp người trở thành nạn nhân đau khổ Ơng đồ Vũ Đình Liên chứng tích cho vẻ đẹp khơng trở lại Là hình ảnh ăn sâu vào tiềm thức người chưa hồn tồn, người có tâm trạng hoài niệm cho vẻ đẹp khứ Vũ Đình Liên Khi mà chữ nghĩa thánh hiền cao q khơng cịn vị trí, phải tận vỉa hè, đường phố, trở thành hàng người ta thảng thốt, giật mình, xót xa cho ánh hào quang rực rỡ thời Tâm thể thơ tạo nên giao thoa đồng cảm nhân vật trữ tình chủ thể trữ tình Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đơng người qua Ở hình ảnh, ấn tượng hằn sâu kí ức chàng niên cịn trẻ Là tuần hồn hoa đào, ông đồ, mực tàu, giấy đỏ tạo nên nét riêng thiêng liêng không gian văn hoá dân tộc Tết đến, xuân Nhưng ta khơng khỏi chạnh lịng trước cảnh ơng đồ phải sống lay lắt đường mưu sinh Vẻ già nua đáng thương đạo học suy tàn? Trớ trêu thay, nơi ơng níu giữ vẻ đẹp văn hố, nơi ơng kiếm sống lại "bên phố đơng người qua" Hình bóng lẻ loi, cô độc người bất lực trước thực phũ phàng Trong dòng đời hối trơi, lên hình ảnh ơng đồ gị chữ tài tâm huyết đời người chợ đời Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo nét Như phượng múa rồng bay Đó dư vang thời, hình ảnh đáng buồn chống chọi vô vọng, ánh nắng cuối ngày rực rỡ, bùng lên ngày tàn Cái cảnh xúm xít, chen lấn để mua câu đối, đôi chữ Nho đau đớn Trong người ấy, có thật cảm thấy xót xa cho xuống cấp thảm hại chữ Thánh Hiền - giá trị tinh thần đặt xuống ngang hàng với giá trị vật chất? Dẫu hữu ơng đồ góp thêm nét đẹp truyền thống ấm cúng, trang trọng cho ngày Tết nét chữ "như phượng múa rồng bay" cố níu kéo lấy chút thể diện cuối cùng, người thán phục, ngưỡng mộ tránh khỏi cảm giác bẽ bàng, sượng sùng? Nhưng danh dự sót lại nhỏ nhoi đâu tồn mãi, bị thời gian khắc nghiệt vùi lấp khơng thương tiếc Nhưng năm vắng Người thuê viết đâu Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng nghiên sầu Khổ thơ hụt hẫng ánh mắt kiếm tìm "Người thuê viết đâu?", nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng "Mỗi năm vắng" Sự tàn lụi văn hoá Nho học điều tất yếu, thay cũ, ánh hào quang trước sau dần tắt, bị lãng quên, thờ dòng đời vất vả với kế mưu sinh, thực phũ phàng khiến cho lớp hậu sinh Vũ Đình Liên khơng khỏi ngại, tiếc thương trước mặt cảnh vật hoang vắng, đượm buồn Trong sắc phai bẽ bàng giấy, kết đọng lạnh lịng mực tự thân dâng lên nỗi buồn tủi Là ngoại cảnh tâm cảnh, nỗi buồn thắm thía, khiến cho vật vô tri vô giác nhuốm sầu chủ nhân chúng "một mình biết, mình buồn", "trĩu nặng ưu tư, xót xa trước thời đổi thay" Và đáng buồn hơn, đến khổ thơ thứ tư cịn lại hình ảnh ông đồ lặng lẽ, cô đơn quang cảnh lạnh lẽo Ơng đồ ngồi Qua đường khơng hay Lá vàng rơi giấy Ngoài trời mưa bụi bay Bằng hi vọng mong manh lại, chút gắng gỏi miếng cơm manh áo, ơng đồ kiên nhẫn ngồi đợi Nhưng đáp lại đợi chờ vơ vọng dáng tấp nập qua lại người, hờ hững, quên diện ông Giữa ồn ào, náo động xung quanh bóng dáng độc ơng đồ Sự đối lập ông đồ sống tất bật khiến nhà thơ ngậm ngùi thương cảm Giữa không gian đông người ấy, ơng đồ ngồi, bóng dáng trầm tư có khác Nguyễn Khuyến trước "tựa gối ơm cần lâu chẳng được" Từng đợt vàng rơi xuống đường, rơi giấy ánh mắt thẫn thờ ngơ ngác trông mưa bụi mịt mờ thật ám ảnh, khiến cho người dâng lên bao nỗi xót xa, đánh động vào lương tri người Không gian hoang vắng đến thê lương Bất lại nghĩ đến câu thơ Yến Lan Bến My Lăng "Trăng đầy rơi vàng mặt sách" "Lá vàng rơi giấy" gợi không gian thấm đẫm nỗi buồn "Lá vàng rơi", số phận hẩm hiu ông đồ đến hồi kết thúc ... vọng Giá trị nội dung thơ Ông đồ Bài thơ Ơng đồ với hình cảnh đáng thương ông đồ thời vắng bóng, thể sâu sắc với tình cảnh đáng thương ơng đồ niềm thương cảm, nuối tiếc tác giả với nét văn hóa... trào thơ b Sự nghiệp văn học - Ngồi sáng tác thơ, ơng nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học - Tác phẩm tiêu biểu Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc… - Phong cách sáng tác Thơ ông. ..1 Tác giả Vũ Đình Liên Giá trị nội dung thơ Ông đồ Cảm nhận thơ Ông đồ Tác giả Vũ Đình Liên a Cuộc đời - Vũ Đình Liên 1913 - 1996 - Quê quán Quê gốc Hải Dương sống chủ yếu Hà Nội - Là nhà thơ - Xem thêm -Xem thêm Hoàn cảnh sáng tác bài thơ ông đồ,
Cùng với các tác giả khác, Vũ Đình Liên là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới đầu thế kỉ XX, với tác phẩm Ông đồ, ông đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh con người trước những giá trị văn hóa truyền thống đang dần bị mai một, cùng tìm hiểu Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ để có thêm những cơ sở để phân tích bài thơ Ông đồ nhé. Bài viết liên quan Ông đồ Tác giả, thể thơ, bố cục, nhan đề, nội dung, nghệ thuật Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề bài thơ Tây Tiến Dàn ý bài hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn Người trong bao Hoàn cảnh sáng tác và tác dụng của hoàn cảnh sáng tác Ngữ Văn lớp 9 Hoàn cảnh sáng tác Khi con tu hú Đề bài Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ của Vũ Đình LiênHoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ1. Tác giả Vũ Đình Liên- Là nhà giáo nhân dân đồng thời là một nhà thơ- Nhà thơ đầu tiên góp mặt trong phong trào Thơ mới đầu thế kỉ XX 2. Tác phẩm Ông đồ- Hoàn cảnh lịch sử Đầu thế kỉ XX, sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, luồng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam khiến cho nền Hán học và chữ nho bị mất vị thế vốn có của nó. Chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, nền văn hóa dân tộc có nguy cơ bị sụp đổ. Điều này kéo theo vị thế của các nhà nho cũng bị sụt giảm theo, từ chỗ là "linh hồn" của nền văn hóa truyền thống dân tộc đến chỗ bị lạc lõng, bơ vơ trước thời cuộc và vắng Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ Trong những năm cuối thế kỉ XIX, hình ảnh các ông đồ với mực tàu, giấy đỏ đang dậm tô những nét chữ tươi tắn bên hè phố Hà Nội tấp nập người mua chữ đã in sâu vào tâm trí nhà thơ, tuy nhiên cho đến đầu thế kỉ XX, những hình ảnh đẹp đẽ đó dần biến mất, ông đồ vẫn ở đó vào dịp Tết đến nhưng thay vào đó là sự thờ ơ, vô tâm của người đời. Năm 1936, Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ Ông đồ, đăng lần đầu tiên trên báo Tinh Nội dung chính Nỗi niềm chua xót, đau đớn, ngậm ngùi, luyến tiếc của tác giả về hình ảnh những ông đồ bị thất thế hay đó chính là những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông được lưu truyền qua hàng ngàn năm dần bị mai Để hiểu rõ hơn về bài thơ của Vũ Đình Liên, ngoài việc tìm hiểu về Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ, các em cũng có thể đón đọc thêm một số bài văn khác trong tài liệu bài văn hay lớp 8 chúng tôi đã tổng hợp được Phân tích bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, Cảm nhận về bài thơ Ông đồ, Phân tích hình ảnh ông đồ trong bài thơ Ông đồ, Phân tích đoạn thơ "Năm nay đào lại nở... Hồn ở đâu bây giờ?" trong bài thơ Ông đồ, Phân tích giá trị biểu cảm của hai câu thơ sau trong bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên "Giấy đỏ buồn không thắm. Mực đọng trong nghiên sầu",... Từ khoá liên quan hoan canh sang tac bai tho ong do, hoan canh ra doi bai tho ong do cua vu dinh lien, noi dung bai tho ong do,
Câu hỏi Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ Lời giải – Hoàn cảnh lịch sử Đầu thế kỉ XX, sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, luồng văn hóa phương Tây tràn vào Việt Nam khiến cho nền Hán học và chữ nho bị mất vị thế vốn có của nó. Chế độ thi cử phong kiến bị bãi bỏ, nền văn hóa dân tộc có nguy cơ bị sụp đổ. Điều này kéo theo vị thế của các nhà nho cũng bị sụt giảm theo, từ chỗ là “linh hồn” của nền văn hóa truyền thống dân tộc đến chỗ bị lạc lõng, bơ vơ trước thời cuộc và vắng đang xem Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ – Hoàn cảnh sáng tác bài Ông đồ Trong những năm cuối thế kỉ XIX, hình ảnh các ông đồ với mực tàu, giấy đỏ đang dậm tô những nét chữ tươi tắn bên hè phố Hà Nội tấp nập người mua chữ đã in sâu vào tâm trí nhà thơ, tuy nhiên cho đến đầu thế kỉ XX, những hình ảnh đẹp đẽ đó dần biến mất, ông đồ vẫn ở đó vào dịp Tết đến nhưng thay vào đó là sự thờ ơ, vô tâm của người đời. Năm 1936, Vũ Đình Liên sáng tác bài thơ Ông đồ, đăng lần đầu tiên trên báo Tinh Hoa. Các em cùng tìm hiểu thêm về bài thơ Ông đồ nhé! Nội dung1. Tác giả Vũ Đình Liên2. Giá trị nội dung bài thơ Ông đồ3. Cảm nhận bài thơ Ông đồ 1. Tác giả Vũ Đình Liên a. Cuộc đời – Vũ Đình Liên 1913 – 1996. – Quê quán Quê gốc là ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội. – Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới. b. Sự nghiệp văn học – Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học. – Tác phẩm tiêu biểu Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc… – Phong cách sáng tác Thơ ông mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng. 2. Giá trị nội dung bài thơ Ông đồ Bài thơ Ông đồ với hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, thể hiện sâu sắc với tình cảnh đáng thương của ông đồ và niềm thương cảm, nuối tiếc của tác giả với nét văn hóa truyền thống của dân tộc. Giá trị nghệ thuật bài thơ Ông đồ – Thể thơ 5 chữ, kết hợp với ngôn ngữ bình dị và súc tích – Giọng thơ trầm lắng, ngậm ngùi – Kết cấu độc đáo, đầu cuối tương ứng – Sử dụng biện pháp nhân hóa kết hợp với việc lựa chọn hình ảnh giản dị nhưng mang tính biểu tượng Theo dòng thời gian bất tận, mọi thứ sẽ lui vào dĩ vãng mịt mờ, để lại cho con người bao nỗi niềm tiếc nuối. Nhất là khi những vẻ đẹp tài hoa một thời chỉ còn vang bóng. Cũng bắt nguồn từ cảm hứng ấy, bài thơ Ông Đồ thể hiện một hoài niệm day dứt, thương cảm cho một giá trị tinh thần sắp tàn lụi. Bài thơ là tấm gương phản chiếu cho hồn thơ giàu lòng thương người và hoài cổ của Vũ Đình Liên. Được ra đời trong phong trào Thơ mới, nhưng bài thơ thoát khỏi hai trục cảm xúc chính thời bấy giờ là tình yêu và thiên nhiên. Trong lúc những nhà thơ lãng mạn đang chìm đắm trong cái tôi cá nhân, muốn vẽ nên hiện thực mà họ muốn có, say sưa trong mộng ảo thì Vũ Đình Liên – một trí thức tây học trong lúc sững người, ngoảnh đầu quay lại phía sau đã bất chợt nhận ra “cái di tích tiều tuỵ, đáng thương của một thời”. Ông đồ – hình ảnh cuối cùng của nền Nho học đã từng tồn tại trong suốt một ngàn năm phong kiến Việt Nam. Sự trượt dốc của nền Nho học đã kéo theo cả một lớp người trở thành nạn nhân đau khổ. Ông đồ của Vũ Đình Liên là một chứng tích cho một vẻ đẹp không bao giờ trở lại. Là hình ảnh đã ăn sâu vào tiềm thức mọi người và vì thế chưa mất đi hoàn toàn, nhất là đối với những con người có tâm trạng hoài niệm cho vẻ đẹp quá khứ như Vũ Đình Liên. Khi mà chữ nghĩa thánh hiền cao quý không còn vị trí, phải ra tận vỉa hè, đường phố, đã trở thành một món hàng… con người ta mới thảng thốt, giật mình, xót xa cho ánh hào quang rực rỡ một thời. Tâm sự ấy đã được thể hiện trong bài thơ tạo nên sự giao thoa đồng cảm giữa nhân vật trữ tình và chủ thể trữ tình Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua. Ở đó là những hình ảnh, ấn tượng đã hằn sâu trong kí ức của chàng thanh niên còn rất trẻ. Là sự tuần hoàn của hoa đào, của ông đồ, của mực tàu, giấy đỏ tạo nên một nét riêng thiêng liêng của không gian văn hoá dân tộc khi Tết đến, xuân về. Nhưng ta không khỏi chạnh lòng trước cảnh ông đồ phải sống lay lắt trên con đường mưu sinh của mình. Vẻ già nua đáng thương hay là đạo học sắp suy tàn? Trớ trêu thay, nơi ông có thể níu giữ vẻ đẹp văn hoá, nơi ông có thể kiếm sống lại là “bên phố đông người qua”. Hình bóng lẻ loi, cô độc của con người như bất lực trước hiện thực phũ phàng. Trong dòng đời hối hả trôi, hiện lên hình ảnh ông đồ đang gò trên từng con chữ tài năng và tâm huyết của một đời người ngay giữa chợ đời Bao nhiêu người thuê viết Tấm tắc ngợi khen tài Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay. Đó là dư vang của một thời, nhưng cũng là hình ảnh đáng buồn trong sự chống chọi vô vọng, như một ánh nắng cuối ngày rực rỡ, bùng lên khi ngày đã sắp tàn. Cái cảnh xúm xít, chen lấn để mua một câu đối, một đôi chữ Nho mới đau đớn làm sao. Trong từng người ấy, có ai thật sự cảm thấy xót xa cho sự xuống cấp thảm hại của chữ Thánh Hiền – một giá trị tinh thần được đặt xuống ngang hàng với giá trị vật chất? Dẫu rằng sự hiện hữu của ông đồ góp thêm nét đẹp truyền thống ấm cúng, trang trọng cho ngày Tết và nét chữ “như phượng múa rồng bay” kia cố níu kéo lấy chút thể diện cuối cùng, được mọi người thán phục, ngưỡng mộ nhưng tránh sao khỏi cảm giác bẽ bàng, sượng sùng? Nhưng cái danh dự còn sót lại nhỏ nhoi ấy cũng đâu tồn tại mãi, nó vẫn bị thời gian khắc nghiệt vùi lấp không thương tiếc Nhưng mỗi năm mỗi vắng Người thuê viết nay đâu Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu. Khổ thơ là một sự hụt hẫng trong ánh mắt kiếm tìm “Người thuê viết nay đâu?”, là nhịp thời gian khắc khoải đến đau lòng “Mỗi năm mỗi vắng”. Sự tàn lụi của nền văn hoá Nho học là một điều tất yếu, cái mới sẽ thay thế cái cũ, ánh hào quang nào trước sau cũng dần một tắt, bị lãng quên, thờ ơ trong dòng đời vất vả với những kế mưu sinh, nhưng hiện thực phũ phàng cũng khiến cho lớp hậu sinh như Vũ Đình Liên không khỏi ái ngại, tiếc thương khi trước mặt mình là một cảnh vật hoang vắng, đượm buồn. Trong sắc phai bẽ bàng của giấy, sự kết đọng lạnh lòng của mực tự thân nó đã dâng lên một nỗi buồn tủi. Là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh, một nỗi buồn thắm thía, khiến cho những vật vô tri vô giác cũng nhuốm sầu như chủ nhân của chúng “một mình mình biết, một mình mình buồn”, “trĩu nặng những ưu tư, xót xa trước thời thế đổi thay”. Và càng đáng buồn hơn, đến khổ thơ thứ tư thì còn lại cái hình ảnh của ông đồ lặng lẽ, cô đơn giữa quang cảnh lạnh lẽo Ông đồ vẫn ngồi đấy Qua đường không ai hay Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trời mưa bụi bay. Bằng hi vọng mong manh còn lại, chút gắng gỏi vì miếng cơm manh áo, ông đồ vẫn kiên nhẫn ngồi đợi. Nhưng đáp lại sự đợi chờ vô vọng đó là những dáng tấp nập qua lại của mọi người, hờ hững, quên đi sự hiện diện của ông. Giữa cái ồn ào, náo động xung quanh là bóng dáng cô độc của ông đồ. Sự đối lập giữa ông đồ và cuộc sống tất bật khiến nhà thơ ngậm ngùi thương cảm. Giữa không gian đông người ấy, ông đồ vẫn ngồi, bóng dáng trầm tư có khác chăng Nguyễn Khuyến trước kia “tựa gối ôm cần lâu chẳng được”. Từng đợt lá vàng rơi xuống đường, rơi trên giấy cùng ánh mắt thẫn thờ như ngơ ngác trông ra màn mưa bụi mịt mờ thật ám ảnh, khiến cho con người dâng lên bao nỗi xót xa, đánh động vào lương tri của mỗi người. Không gian hoang vắng đến thê lương. Bất chợt tôi lại nghĩ đến câu thơ của Yến Lan trong Bến My Lăng “Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách”. “Lá vàng rơi trên giấy” cũng gợi ra cái không gian thấm đẫm nỗi buồn. “Lá vàng rơi”, cũng như số phận hẩm hiu của ông đồ đã đến hồi kết thúc. Đăng bởi Sài Gòn Tiếp Thị Chuyên mục Lớp 8, Ngữ Văn 8
hoàn cảnh sáng tác bài thơ ông đồ