hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng
Bài thơ Hoàng hạc lâu tống mạnh Hạo nhiên chi Quảng lăng ghi lại một kỷ niệm sâu sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, qua đó nói lên tình lưu luyến, thương nhớ bạn. Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc.
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu. Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu. Dịch nghĩa Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây, Tháng ba hoa khói, xuống
Đề bài: Anh chị hãy phân tích bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" của Lí Bạch. Lí Bạch(701-762) là một trong ba nhà thơ cự phách đời Đường, ông được người đời ca ngợi là "Thi tiên" để lại hơn một nghìn bài thơ hay khác nhau. Ông coi thường danh lợi, thích ngao du sơn thủy, cầu
Về Lý Bạch, các em được học bài thơ nói về tình bạn, đó là bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng). Nếu ở THCS, bài Hoàng Hạc lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu chỉ ở phần đọc thêm thì ở chương
Hoàng Hạc Lâu từng trải qua 12 tu sửa và xây cất lại, mỗi lần tái thiết chiều cao của nó cũng được tăng lên và có thêm nhiều tầng tháp mới. Hiện tại, Hoàng Hạc Lâu có 5 tầng lầu, được xây dựng mới nhất vào năm 1980, sau khi ngọn tháp cũ bằng gỗ bị thiêu cháy vào năm 1884.
gambar lingkungan rumah bersih dan sehat kartun. Phân tích Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng. Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Lầu Hoàng Hạc gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc vàng bay về đây. Bạn là Mạnh Hạo Nhiên 689-740 một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý Bạch; một kẻ sĩ hào hiệp hào hoa, phóng khoáng, ưa ngao du, rất tâm đầu ý hợp với Lý Bạch. Hai chữ “Cố nhân” bạn cũ, người xưa trong câu đầu nói lên mối quan hệ sâu sắc, lâu bền về tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách “Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu” Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đường Câu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ “tây” chưa dịch được để nói lên hướng đi của bạn. Chữ “bạn” chưa lột tả hết ý và cảm xúc của từ “cố nhân”. Trong thơ cổ, mỗi lần từ “cố nhân” xuất hiện, gợi tả bao tình nghĩa làm rung động hồn người “Dạng chu tầm thuỷ tiện Nhân phỏng cố nhân cư” Mạnh Hạo Nhiên Thuật dòng đủng đỉnh thuyền bơi Cố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà – “Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân” câu 2330- “Truyện Kiều” Câu hai phát triển và hoàn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày tháng ba tam nguyệt mùa hoa khói yên hoa, xuôi về nơi phồn hoa đô hội, Dương Châu – một trong những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng Chữ “há” có bản phiên âm là “hạ”, được Ngô Tất Tố dịch thành “xuôi dòng”, thật là sáng tạo. “Yên hoa” là một thi liệu, một ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau hai địa danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị “Bạn từ lầu Hạc ra đi Dương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba” Nhữ Thành Có thể nói trong hai câu “Khai thừa”, yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ nỗi niềm của một tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Nơi “thi hội tao nhân” cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc Lâu. Lý Bạch đứng trên lầu cao hay trên một cao điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa? Cấu trúc không gian hai điểm mút “cận – viễn” là một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức hoạ cổ Trung Hoa. Lý Bạch đã vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một chỉnh thể nghệ thuật hoàn hảo. 2. Tình lưu luyến mến thương Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp dòng sông, cánh buồm, bầu trời là hình ảnh của Lý Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa… Cánh buồm đơn côi, lẻ loi cô phàm xa dần, mờ dần viễn ảnh rồi mất hút vào trời xanh, vào cuối chân trời xa bích không tận. Hay tầm lòng “Thi tiên” với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương… như những con sóng gối lên nhau, đưa tiễn con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang? “Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lý Bạch. Dòng sông càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết…. Lí Bạch tả về cái buồn của sự li biệt, nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khoáng khi ông miêu tả cái hùng vĩ của thiên nhiên”. Trần Xuân Đề “Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu” Bóng buồm đã khuất bầu không Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời. Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là “cô phàm viễn ảnh”. Cái tâm cảnh của Lí Bạch được diễn tả bằng hai chữ “duy kiến” – chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế phát triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên Tràng An, Dương Châu, Thành Đô v..v… Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý Bạch “duy kiến” chiếc “cô phàm” của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong “bầu trời xanh biết”. Chỉ sống với một tình bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái nhìn “duy kiến” ấy. Mặc dầu chưa dịch được hai chữ “cô” cô phàm, “bích” bích không tận nhưng Ngô Tất Tố đã lột tả được “điệu Đường”, “hồn Đường” của nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của nhà thơ Lý bạch. Cô giáo Bảo Như là một giáo viên hiện đang công tác tại một trường ở thành phố Hồ Chí Minh. Tôi đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành giáo dục và có hơn 5 năm kinh nghiệm giảng dạy. Tôi đam mê nghề giáo và luôn cố gắng tìm kiếm những phương pháp giảng dạy mới để giúp học sinh hiểu bài tốt hơn và phát triển toàn diện về mặt trí tuệ cũng như tinh thần. Tôi tin rằng, giáo dục là chìa khóa để giải quyết nhiều vấn đề xã hội và tôi luôn cố gắng góp phần vào sự phát triển của đất nước thông qua công tác giảng dạy. Ngoài ra, tôi còn đam mê viết lách và thích đọc sách để cập nhật kiến thức mới.
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa Bản dịch của Ngô Tất Tố 故人西辭黃鶴樓, 煙花三月下陽州。 孤帆遠影碧空盡, 惟見長江天際流。 Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu. Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu. Bạn cũ giã từ lầu Hoàng Hạc, ở phía tây, Xuôi về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói. Bóng cánh buồm lẻ loi xa dần, mất hút vào khoảng không xanh biếc, Chỉ thấy sông Trường Giang chảy vào cõi trời. Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng. Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời. Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Nếu ở phương Tây, Victor Hugo viết lời thành kính gửi người bạn quá cố Honore Balzac thì sang đến phương Đông, Nguyễn Khuyến và Lý Bạch lại chọn cách sáng tác thơ để tiễn đưa người bạn vong niên. Trong đó, phải kể đến Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lý Bạch. Không chỉ dụng tâm sáng tác, nhà thơ còn cất công đến bờ sông gửi tặng người bạn Mạnh Hạo Nhiên. Đôi nét Lý Bạch và tác phẩm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Lý Bạch là nhà thơ nổi tiếng bậc nhất thời Đường, được ca tụng là vị “Thi tiên” vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Năm mười sáu tuổi, cái tên Lý Bạch đã nổi tiếng khắp Tứ Xuyên nhưng với tính cách tự do, phóng khoáng, chán chường nhân gian nên ông đã bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ. Số lượng bài thơ mà Lý Bạch đã sáng tác lên tới hơn hai nghìn bài, thế nhưng ông làm xong bài nào thì vứt bài đó, chịu ảnh hưởng của biến cố loạn An Lộc Sơn nên thơ ông bị mất nhiều. Trải qua năm tháng thăng trầm của lịch sử, nhờ nỗ lực thu thập của nhân dân và giới chuyên môn, tác phẩm của nhà thơ hiện tồn tại trên dưới một nghìn bài. Văn chương Lý Bạch đến nay phần lớn có được là do sưu tầm Thơ Lý Bạch có sự viển vông, tưởng tượng, ít đụng chạm đến chuyện thế sự nhưng vẫn có nét hoài cổ. Thơ ông thường thể hiện ước mơ đi đến lý tưởng cao cả, khát vọng giải phóng cá nhân trước sự hiện thực tầm thường, đồng thời thể hiện tình cảm thiên nhiên, bạn bè bằng hữu. Là một nhà thơ nổi tiếng của Trung Hoa, lại ưa lối sống phóng khoáng nên Lý Bạch quen biết được rất nhiều bạn thuộc nhiều tầng lớp khác nhau. Với mỗi người bạn, ông đều dành cho họ thứ tình cảm chân thành, đối đãi nồng hậu. Ta tới đây, cũng không biết là vì sao đây? Mà nằm dài trong thành Sa Khâu Ngoài thành có cây cổ thụ Ngày đêm xào xạc tiếng thu Rượu nước Lỗ không thể làm ta say Ca xướng nước Tề cũng không hợp lòng ta Nhớ anh như là sông Vấn Dào dạt chảy về nam. – Sa Khâu thành hạ ký Đỗ Phủ Năm 727, Lý Bạch du ngoạn ở mạn đông về tới Hồ Bắc. Tại đây ông đã giao lưu, tiếp xúc với nhiều tài tử giai nhân, trong đó có Mạnh Hạo Nhiên, người hơn ông mười hai tuổi. Mạnh Hạo Nhiên vốn là một nhà thơ nổi tiếng của phái Điền Viên Sơn Thủy, từng làm quan nhưng không thấy phù hợp nên sớm lui về ở ẩn. Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên khi ấy đều coi trọng tài năng và nhân cách của đối phương, liền coi nhau như trí cốt. Tháng Ba năm 730, biết tin Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng và ngang qua Giang Hạ, Lý Bạch đã nhờ người mang thư hẹn gặp ở đó. Mấy hôm sau, Mạnh Hạo Nhiên đi thuyền xuôi dòng tới nơi, Lý Bạch tới tận bờ sông tiễn bạn và sáng tác bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng. Cảnh đưa tiễn Mạnh Hạo Nhiên của Lý Bạch Giống như những cuộc chia ly khác trong bức tranh thơ Đường, cuộc chia tay giữa Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên được diễn ra bên bờ sông. Hai câu thơ mở đầu bài thơ, thi nhân nói về hoàn cảnh đưa tiễn Hạo Nhiên Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu Dịch thơ Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng Hai chữ “cố nhân” trong nguyên văn nói về người bạn đã gắn bó từ lâu, một người mà nhà thơ rất trân trọng và yêu mến. Tuy nhiên ở bản dịch, Ngô Tất Tố chung thành với từ “bạn” nên chưa thể lột tả hết được tình cảm, sắc thái biểu cảm trong nguyên tác. Nhờ có tính biểu cảm nên chỉ cần đọc hai chữ “cố nhân”, độc giả cũng đủ thấy tình cảm bền chặt, mối quan hệ sâu sắc của hai người. Xa bạn cũ, còn là người bạn thân thiết từ lâu, ắt hẳn nhà thơ rất buồn nên cuộc chia tay diễn ra đầy bịn rịn, luyến lưu. Bài thơ thể hiện mối quan hệ bền chặt của hai thi nhân Địa điểm Hoàng Hạc lâu hay lầu Hoàng Hạc gắn liền với nhiều câu chuyện xưa, điều ấy càng gia tăng tính nghệ thuật cho câu thơ. Tương truyền có vị tiên tên Tử An từng cưỡi hạc qua đây, cũng có thuyết kể rằng thời Tam Quốc, Phí Văn Vĩ từ đây cưỡi hạc lên tiên giới. Cuộc chia tay diễn ra vào tháng Ba, tháng của mùa xuân, mùa hoa khói, mùa của sự khởi đầu, tượng trưng cho những điều tốt đẹp. Cụm từ “yên hoa tam nguyệt” có nhiều cách dịch khác nhau, bản dịch chung thành “mùa hoa khói” nhưng còn thiếu cụm từ “tam nguyệt”, tức tháng thứ Ba của mùa xuân. Đương thời bình, Lý Bạch tiễn bạn từ lầu Hoàng Hạc đến một Quảng Lăng, chốn phồn hoa đô hội nên khung cảnh không có những giọt lệ đầm đìa. Thế nhưng không thể tránh khỏi cảm xúc buồn thương, tiếc nuối khi phải chia xa. Nỗi lòng của thi nhân trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Cuộc chia tay nào rồi cũng đến hồi kết nhưng cơn sóng lòng trong người đi kẻ ở thì khó nguôi ngoai. Trước khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, rộng lớn, con người bỗng trở nên nhỏ bé, trống trải khi thiếu đi tri kỷ. Nỗi lòng thi nhân trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Giang Nam thời Thịnh Đường vốn là chốn đô thị sầm uất, tấp nập kẻ đến người đi với phương tiện đi lại chủ yếu bằng thuyền. Trường Giang vốn là dòng sông lớn nổi tiếng của Trung Quốc, ắt hẳn sẽ có nhiều chiếc thuyền khác trên dòng sông này. Cô phàm viễn ảnh bích sơn tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu. Dịch thơ Bóng buồm đã khuất bầu không, Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời. Dòng Trường Giang vốn sôi động, tấp nập thuyền qua lại, vậy mà Lý Bạch chỉ chú ý duy nhất đến con thuyền ngày một khuất bóng của bạn mình. Đây không còn là cái nhìn lí trí của nhà thơ mà là cái nhìn của tâm tưởng, cảm xúc đang trào dâng. Tại câu thơ thứ ba, bản dịch thiếu mất nghĩa chữ “cô” trong cô đơn và lẻ loi, đó là từ ngữ quan trọng, thể hiện nội tâm của Lý Bạch. Ngoài ra, bản dịch chưa đề cập đến “bích sơn tận” hay “viễn ảnh”, có nghĩa là bóng cánh buồm xa mờ. Chiếc thuyền buồm lẻ loi đưa Mạnh Hạo Nhiên đi dần, tan biến theo cái vô tận của sông nước, dòng sông càng lớn thì chiếc thuyền càng nhỏ. Sự cô đơn của chiếc thuyền là tâm trạng chung của Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên, bằng hình ảnh cánh buồm đơn độc, nhà thơ vừa miêu tả quang cảnh nơi tiễn đưa bạn, vừa bộc lộ được nỗi lòng bản thân. Sự cô đơn của chiếc thuyền là tâm trạng chung của Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên Cái tài tình của nhà thơ ở chỗ, vừa bộc bạch được nỗi buồn của sự ly biệt đồng thời khắc họa khung cảnh thiên nhiên đất trời hùng vĩ, phóng khoáng. Sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm cảnh, qua hình ảnh cánh buồm đơn độc đã khẳng định sự trân trọng tình bạn cao đẹp của Lý Bạch. Hình ảnh “bích sơn tận” diễn tả khoảng không gian xanh, không biết sắc xanh đó từ trời hay từ nước, chỉ biết rằng nó quá rộng lớn để có thể nhận biết. Trái ngược với đó là sự nhỏ bé, cô đơn, lẻ loi của “cô phàm”. Nếu “cô phàm viễn ảnh” giống như tiêu điểm thì “duy kiến” là hình ảnh thu được. Tất cả nỗi buồn của nhà thơ được mang theo cùng ánh nhìn xa xăm, luôn dõi theo bóng thuyền Mạnh Hạo Nhiên ngày một xa dần. Đó là quan hệ tương phản giữa cái vô hạn của vũ trụ với cái hữu hạn của đời người, giữa cái mênh mông của đất trời với cái lẻ loi của con người. Để rồi đằng sau đó là sự cô đơn, lẻ loi và trống trải của một tâm hồn chứa chan tình cảm. Nghệ thuật đặc sắc của Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Thông thường khi nói về những cuộc chia ly, các nhà thơ đa phần miêu tả hành động, cử chỉ kèm theo ngôn ngữ của đôi bên. Tuy nhiên trong bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Lý Bạch không cho thấy sự xuất hiện của giọt lệ hay lời trăn trở, đau buồn. Bài thơ mang nhiều dấu ấn nghệ thuật của Lý BạchBằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đầy tinh tế, Lý Bạch đã phá vỡ các quy chuẩn ngôn từ, không miêu tả quá nhiều về người ra đi mà chỉ tập trung tả cảnh thiên nhiên bao la. Thế nhưng, chính sự hùng vĩ của sông núi, đất trời lại ẩn chứa một nỗi lòng sâu kín của thi nhân. Sử dụng tính chất “ý tại ngôn ngoại”, lời cùng ý thơ bất tận trong Đường thi, cấu trúc không gian hai điểm nút “cận – viễn” là một thủ pháp hội họa. Lý Bạch đã tạo nên một bài thơ có sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa cái vô hạn và cái hữu hạn. Lý Bạch còn là một người có tính cách đằm thắm, trọng ân tình bằng hữu. Tình bạn của ông và Mạnh Hạo Nhiên là minh chứng rõ nhất cho sự chân thành, sâu lắng của một “Thi tiên”. Phương Anh
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Mời các bạn tham khảo thêm tài liệu Chiến Thắng MTAO MXÂY I. Tác giả và chủ đề Lý Bạch 701-762 là một trong ba nhà thơ cự phách đời Đường. Ông được người đời ca ngợi là “Thi tiên”, để lại hơn một nghìn bài thơ tuyệt tác. Là một kiếm khách – thi sĩ, ông coi thường danh lợi, thích ngao du sơn thuỷ, cầu tiên phỏng đạo. Trăng, rượu, hoa, cảnh núi sông tráng lệ, tình bằng hữu, tình quê hương lòng khao khát tự do… chứa chan trong những vần thơ lãng mạn tràn đầy hùng tâm tráng chí. Ông có làm quan khoảng 3 năm ở kinh đô Tràng An nhưng đã vứt bỏ áo mũ, với thanh gươm túi thơ lại lên đường… “Vọng Lư Sơn bộc bố”, “Hành lộ nan”, “Tĩnh dạ tư”, “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”, “Tảo phát Bạch Đế thành”… là những bài thơ nổi tiếng của “Thi tiên” cho thấy một hồn thơ tuyệt đẹp. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” ghi lại một kỷ niệm sâu sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, qua đó nói lên tình lưu luyến, thương nhớ bạn. II. Phân tích 1. Cách đưa tiễn Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Lầu Hoàng Hạc gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên, thường cưỡi hạc vàng bay về đây. Bạn là Mạnh Hạo Nhiên 689-740 một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý Bạch; một kẻ sĩ hào hiệp hào hoa, phóng khoáng, ưa ngao du, rất tâm đầu ý hợp với Lý Bạch. Hai chữ “Cố nhân” bạn cũ, người xưa trong câu đầu nói lên mối quan hệ sâu sắc, lâu bền về tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách “Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu” Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đường Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Câu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ “tây” chưa dịch được để nói lên hướng đi của bạn. Chữ “bạn” chưa lột tả hết ý và cảm xúc của từ “cố nhân”. Trong thơ cổ, mỗi lần từ “cố nhân” xuất hiện, gợi tả bao tình nghĩa làm rung động hồn người “Dạng chu tầm thuỷ tiện Nhân phỏng cố nhân cư” Mạnh Hạo Nhiên Thuật dòng đủng đỉnh thuyền bơi Cố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà – “Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân” câu 2330- “Truyện Kiều” Câu hai phát triển và hoàn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày tháng ba tam nguyệt mùa hoa khói yên hoa, xuôi về nơi phồn hoa đô hội, Dương Châu – một trong những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng Chữ “há” có bản phiên âm là “hạ”, được Ngô Tất Tố dịch thành “xuôi dòng”, thật là sáng tạo. “Yên hoa” là một thi liệu, một ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau hai địa danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị “Bạn từ lầu Hạc ra đi Dương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba” Nhữ Thành Có thể nói trong hai câu “Khai thừa”, yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ nỗi niềm của một tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Nơi “thi hội tao nhân” cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc Lâu. Lý Bạch đứng trên lầu cao hay trên một cao điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa? Cấu trúc không gian hai điểm mút “cận – viễn” là một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức hoạ cổ Trung Hoa. Lý Bạch đã vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một chỉnh thể nghệ thuật hoàn hảo. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng 2. Tình lưu luyến mến thương Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp dòng sông, cánh buồm, bầu trời là hình ảnh của Lý Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa… Cánh buồm đơn côi, lẻ loi cô phàm xa dần, mờ dần viễn ảnh rồi mất hút vào trời xanh, vào cuối chân trời xa bích không tận. Hay tầm lòng “Thi tiên” với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương… như những con sóng gối lên nhau, đưa tiễn con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang? “Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lý Bạch. Dòng sông càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết…. Lí Bạch tả về cái buồn của sự li biệt, nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khoáng khi ông miêu tả cái hùng vĩ của thiên nhiên”. Trần Xuân Đề “Cô phàm viễn ảnh bích không tận Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu” Bóng buồm đã khuất bầu không Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời. Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là “cô phàm viễn ảnh”. Cái tâm cảnh của Lí Bạch được diễn tả bằng hai chữ “duy kiến” – chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế phát triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên Tràng An, Dương Châu, Thành Đô v..v… Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý Bạch “duy kiến” chiếc “cô phàm” của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong “bầu trời xanh biết”. Chỉ sống với một tình bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái nhìn “duy kiến” ấy. Mặc dầu chưa dịch được hai chữ “cô” cô phàm, “bích” bích không tận nhưng Ngô Tất Tố đã lột tả được “điệu Đường”, “hồn Đường” của nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của nhà thơ Lý bạch. III. Tổng kết 1. Bài thơ “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” là một trong những tuyệt tác về thơ thất ngôn tứ tuỵêt của Lý Bạch. Vừa cụ thể vừa phổ quát cho muôn đời về nỗi buồn tống biệt và ức hữu. Cấu trúc không gian xa – gần cận – viễn, lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm, ngôn ngữ, trang nhã, gợi cảm, hàm súc… đó là những yếu tố nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp văn chương và cốt cách của bài thơ này. 2. Bài thơ đã phản ánh một tâm hồn đẹp, một tình bạn đẹp của Lý Bạch, cũng là của những tao nhân mặc khách đời Đường. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Sách giáo khoa ngữ văn lớp 10 tập 1 Xem thêm các sách tham khảo liên quan Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 Ngắn Gọn Soạn Văn – Sách Giải Văn – Sách Học Tốt Ngữ Văn Lớp 10 Cực Ngắn Tập Làm Văn Mẫu Lớp 10 Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1 Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2 Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 1 Sách Giáo Viên Ngữ Văn Lớp 10 Nâng Cao Tập 2 Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1 Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2 Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 1 Nâng Cao Sách Bài Tập Ngữ Văn Lớp 10 Tập 2 Nâng Cao Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng. Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng – Hiếu được tình bạn chân thành, trong sáng của. Nắm được đặc trưng phong cách thơ tuyệt cú tứ tuyệt của Lí Bạch ngôn ngữ giản dị, hình ảnh tươi sáng và gợi cảm. Lí Bạch 701 – 762, tự là Thái Bạch, quê ở Lũng Tây nay thuộc tỉnh Cam Túc. Ông là nhà thơ lãng mạn vĩ đại của Trung Quốc. Vì tính cách khoáng đạt, thơ lại hay nói đến cõi tiên nên Lí Bạch được gọi là “Thi tiên”. Thơ ông hiện còn trên 1000 dung thơ Lí Bạch rất phong phú, với những chủ đề chính là ước mơ vươn tới lí tưởng cao cả, khát vọng giải phóng cá tính, bất bình với hiện thực tầm thường, thể hiện tình cảm phong phú và mãnh liệt. Phong cách thơ Lí Bạch rất hào phóng, bay bổng lại rất tự nhiên, tỉnh tế và giản dị. Đặc trưng q q q A SA Aq Sq A AAA A AAA A ASq qS AA qcả và cái Bạc Tranh chân dung1 Hoàng Hạc lâu lầu Hoàng Hạc một thắng cảnh nổi tiếng của Trung Quốc nằm trên mỏm Hoàng Hạc Cơ, núi Hoàng Hạc, bên sông Trường Giang, huyện Vũ Xương, nay thuộc thành phố Vũ Hán, tỉ ỗ Bắc.2 Mạnh Hạo Nhiên 689 – 740 một nhà thơ nổi tiếng của Trung 7- .1 g. Mạnh Hạo Nhiên hơn Lí Bạch 12 tuổi, nhưng ho là đôi b3 Quảng Lăng tên một quận, thủ phủ là Dương Châu, đô thị phồn hoa vào bậc nhất ở thời Đường, nay là thành phố Dương Châu, tỉnh Giang Phiên âm Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu, Yên hoa tam nguyệthá Dương Châu. Cô phàm viễn ảnh bích không tận, Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu. Dịch nghĩa Bạn cũ giã từ lầu Hoàng Hạc, ở phía tây, Xuôi về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói. Bóng cánh buồm lẻ loi xa dần, mất hút vào khoảng không xanh biếc, Chỉ thấy sông Trường Giang chảy vào cõi thơ Bạn từ lầu Hạc lên đường, Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòngBóng buồm đã khuất bầu không,Trông theo chỉ thấy dòng sông bên TẤT TỐ dịch, Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987HƯỨNG DẫN HụC BằI 1. Xác lập mối quan hệ giữa không gian lầu Hoàng Hạc – sông Trường Giang – Dương Châu, thời gian tháng ba – mùa hoa khói và con người cố nhân… trong bài thơ. Mối quan hệ ấy có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện khung cảnh và tâm tình người đưa tiễn ? 2. Sông Trường Giang là huyết mạch giao thông chính của miền Nam Trung Quốc. Mùa xuân trên sông Trường Giang hẳn có nhiều thuyền bè xuôi ngược, vì sao Lí Bạch lại chỉ thấy “cánh buồm lẻ loi” cô phàm của “cố nhân”? . Anh chị hãy tự đặt mình vào vị trí của người đưa tiễn nhìn theo cánh buồm dần xa và dòng sông chảy vào cõi trời để cảm nhận tâm tình của thi NHỞ3Với ngÔ q TA qAAAAAAAA AAAAL LqAAq qAAAAAAAAqqq MA AAAqAAAAAAAqq La L h ban sâu sắc chân thànhCủa hai nhà thơ lớn thời Thịnh Đường. Thời đại nào tình bạn cũng rất đáng trân TậP1. Người ta g ch Ro Ica y g là ở chỗ thể hiện được “ý tại ngôn ngoại” ý ở ngoài lời. Hãy tìm “ý tại ngôn ngoại” qua bài thơ này. . Các nhà thơ thời Đường rất trân trọng tình bạn. Anh chị hãy suy ngẫm về vị trí và ý nghĩa của tình bạn trong cuộc sống ngày nay. . Học thuộc bài thơ phần phiên âm và dịch thơ.这 atas l ܢܝܚܬܝ- – ܢL23144 ↡ Tài liệu trên trang là MIỄN PHÍ, các bạn vui lòng KHÔNG trả phí dưới BẤT KỲ hình thức nào!
hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng